Bạn đang xem: Lịch sử việt nam 1930 đến 1945
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945, gắn liền với sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc ta.
Đường lối cách mạng giải phóng dân tộc là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám. Quá trình hình thành đường lối chiến lược giải phóng dân tộc là quá trình vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin vào điều kiện cụ thể của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX - một xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Dưới ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp, Việt Nam từ một xã hội phong kiến thuần túy biến thành một xã hội thuộc địa, dù tính chất phong kiến còn được duy trì một phần nhưng các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đều chuyển động trong quỹ đạo của xã hội thuộc địa. Trong lòng xã hội Việt Nam thời kỳ này đã hình thành nên những mâu thuẫn giai cấp, dân tộc đan xen rất phức tạp.
Để hình thành đường lối cách mạng đúng đắn nghĩa là phải vận dụng lý luận cách mạng vào điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội thuộc địa Việt Nam để nhận thức đúng mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của xã hội Việt Nam, xác định đúng kẻ thù, quyết định nhiệm vụ chiến lược, các chủ trương chính sách để tập hợp lực lượng và phương pháp cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn. Do đó, quá trình hình thành đường lối cách mạng giải phóng dân tộc giai đoạn 1930-1945, Đảng ta đã trải qua quá trình đấu tranh cách mạng kiên cường vừa trực tiếp tuyên truyền, giáo dục, vận động tổ chức quần chúng đấu tranh chống đế quốc thực dân, chống sưu cao thuế nặng, chống khủng bố dã man vừa phát triển lực lượng bổ sung, tăng cường lãnh đạo các cấp của Đảng nhất là phải nhiều lần lập mới, bổ sung Ban Chấp hành Trung ương của Đảng vừa phải đẩy mạnh hoạt động “tự chỉ trích”, đấu tranh với tinh thần Bolshevik để khắc phục những quan niệm cho rằng: Những nguyên lý về “giai cấp cách mạng” được coi như những giáo lý phải được tiếp thu vô điều kiện như chân lý bất biến khi vận dụng lý luận cách mạng vào điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội thuộc địa Việt Nam. Đây là cuộc đấu tranh rất quyết liệt và phức tạp chống chủ nghĩa giáo điều, dập khuôn máy móc, chống chủ nghĩa chủ quan tách rời thực tiễn.
Những nội dung chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa của Cương lĩnh Chính trị đầu tiên của Đảng ta đã đáp ứng đúng yêu cầu khách quan của lịch sử, đáp ứng khát vọng độc lập tự do của toàn dân tộc, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới mở ra sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga 1917, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định, thời đại mới là: “Thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”. Cương lĩnh Chính trị đầu tiên này đã xử lý đúng đắn vấn đề dân tộc và giai cấp trong chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc. Vì mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của xã hội Việt Nam thời kỳ này là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai phản động.
Bảy tháng sau, tại Hội nghị lần thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương, thay cho Ban Chấp hành Trung ương lâm thời, Luận cương Chính trị của Đảng cộng sản Đông Dương (Dự án để thảo luận trong Đảng) được thay thế cho Cương lĩnh Chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam lại nhấn mạnh mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt ở Việt Nam, Lào và Cao Miên: “Một bên là thợ thuyền dân cày và các phần tử lao khổ, một bên thì địa chủ phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa”. Luận cương xác định tính chất của cuộc cách mạng Đông Dương lúc đầu là cuộc “cách mạng tư sản dân quyền” cho đây là: “Thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng”. Luận cương cho rằng: Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là phải: “Tranh đấu để đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tư bản và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để” và “Đánh đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập”. Luận cương còn xác định hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và phản phong phải được đặt ngang hàng nhau: “Có đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa mới phá được các giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi, mà có phá tan được chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa”. Luận cương đã quá nhấn mạnh cách mạng ruộng đất và đấu tranh giai cấp là điều không phù hợp với thực tiễn của xã hội thuộc địa.
Đến tháng 12/1930, trong thư của Trung ương gửi các cấp Đảng bộ, lại tiếp tục nhấn mạnh đấu tranh giai cấp và xác định: Địa chủ là “thù địch của dân cày, không kém gì đế quốc chủ nghĩa” , “liên kết đế quốc chủ nghĩa mà bóc lột dân cày” . Giai cấp tư sản “có một bộ phận đã ra mặt phản cách mạng” một bộ phận khác “kiếm cách thỏa hiệp với đế quốc” một bộ phận “ra mặt chống đế quốc” nhưng đến khi cách mạng phát triển “chúng sẽ theo phe đế quốc mà chống lại cách mạng”. Trong thư này, Ban Thường vụ Trung ương chủ trương: “Tiêu diệt địa chủ”, “tịch ký tất cả ruộng đất của chúng nó (địa chủ) mà giao cho bần và trung nông”. Nhận thức không phù hợp với thực tiễn của xã hội thuộc địa Việt Nam và không phù hợp với chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc còn kéo dài gần 5 năm cho đến Đại hội đại biểu toàn Đảng lần thứ nhất (tháng 3/1935).
Hội nghị Trung ương tháng 11/1939 đã quyết định: “Cuộc cách mệnh tư sản dân quyền do Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thực hiện giải quyết: 1. Đánh đổ đế quốc Pháp, vua chúa bổn xứ và tất cả bọn phản động tay sai cho đế quốc và phản bội dân tộc. 2. Đông Dương hoàn toàn độc lập (thi hành quyền dân tộc tự quyết). 3. Lập chính phủ cộng hòa dân chủ. 4. Lập quốc dân cách mệnh quân. 5. Quốc hữu hóa những nhà băng, các cơ quan vận tải, giao thông các binh xưởng, các sản vật trên rừng, dưới biển và dưới đất. 6.Tịch ký và quốc hữu hóa tất cả các xí nghiệp của tư bản ngoại quốc và bọn đế quốc thực dân và tài sản của bọn phản bội dân tộc, nhà máy giao thợ thuyền quản lý. 7.Tịch ký và quốc hữu hóa đất ruộng của đế quốc thực dân và bọn phản bội dân tộc. Lấy đất của bọn phản bội, đất công điền, đất bỏ hoang chia cho quần chúng nông dân cày cấy. 8.Thi hành luật lao động ngày 8 giờ, 7 giờ cho các hầm mỏ. 9. Bỏ hết các thứ sưu thuế. 10. Thủ tiêu tất cả các khế ước cho vay đặt nợ. 11. Ban hành các quyền tự do dân chủ, cả quyền nghiệp đoàn phổ thông đầu phiếu, những người công dân từ 18 tuổi trở lên, bất cứ đàn ông đàn bà nòi giống nào đều được quyền bầu cử, ứng cử. 12. Phổ thông giáo dục cưỡng bách. 13. Nam nữ bình quyền về mọi phương diện xã hội, kinh tế và chính trị. 14. Mở rộng các cuộc xã hội, y tế, cứu tế, thể thao.v.v .
Một điểm rất đặc sắc của quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc thời kỳ 1930-1945 là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Trung ương Đảng ta đã sáng tạo một hình thức tổ chức độc đáo phù hợp với điều kiện lịch sử của Việt Nam, đó là lập mặt trận dân tộc thống nhất để hiện thực hóa tư tưởng của V.Lenin vĩ đại: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng- Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp của toàn dân Việt Nam được Đảng tuyên truyền giác ngộ và được tập hợp tổ chức trong mặt trận dân tộc thống nhất nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Vào năm 1936, trước nguy cơ của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2, Đại hội VII Quốc tế cộng sản chủ trương tập hợp mọi lực lượng dân chủ hòa bình chống chế độ phản động, chống chủ nghĩa phát xít. Nhiều nước trên thế giới đã hình thành mặt trận dân tộc rộng rãi. Ở Pháp, năm 1935, Mặt trận Bình dân Pháp được thành lập và giành được thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử và đứng ra thành lập chính phủ (5/1936).
Thực hiện nghị quyết của Quốc tế Cộng sản, lợi dụng Mặt trận Bình dân Pháp giành thắng lợi ở Pháp, Đảng ta đã chủ trương mở rộng Mặt trận Dân chủ thống nhất Đông Dương nhằm tập hợp các giai cấp, đảng phái, dân tộc, tổ chức chính trị, xã hội và tôn giáo khác nhau thực hiện nhiệm vụ chung là: “Mặt trận dân chúng thống nhất phản đế phải dùng đủ phương pháp mà đánh tan ách thống trị của đế quốc Pháp, chống đế quốc chiến tranh, chống chủ nghĩa phát xít, bênh vực Xô Viết Liên bang”. Đến Hội nghị Trung ương tháng 11/1939, tư duy lý luận về tổ chức lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng đã hoàn toàn thống nhất với tư tưởng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc: Nhiệm vụ đánh Pháp đuổi Nhật không phải chỉ của riêng giai cấp công nhân và nông dân mà là nhiệm vụ chung của toàn dân Việt Nam, khi Trung ương Đảng xác định: “Thống nhất lực lượng dân tộc là điều kiện cốt yếu để đánh đổ đế quốc Pháp”. Nghị quyết của Hội nghị Trung ương tháng 11/1940 đã đưa ra quan niệm về “Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế là sự liên minh giữa các lực lượng cách mệnh phản đế không phân biệt giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo, mục đích là thực hiện thống nhất hành động giữa các lực lượng ấy đặng tranh đấu tiến lên vũ trang bạo động đánh đổ đế quốc Pháp, Nhật và các lực lượng phản động ngoại xâm và các lực lượng phản bội quyền lợi dân tộc làm cho Đông Dương được hoàn toàn giải phóng”.
Tại Hội nghị này, dù Trung ương đã khẳng định: “Khẩu hiệu cách mệnh phản đế; cách mạng giải phóng dân tộc cao hơn và thiết dụng hơn” nhưng lại cho rằng: “Cách mạng phản đế và cách mạng thổ địa phải đồng thời tiến, không thể cái làm trước cái làm sau”.
Từ quan điểm chỉ đạo này, Đảng ta đã xác định tính chất của cách mạng Việt Nam giai đoạn này là cách mạng giải phóng dân tộc, đây là nhiệm vụ cấp bách, quan trọng hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Vì thế Hội nghị chủ trương tạm gác khẩu hiệu “Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày”, thay bằng khẩu hiệu: “Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất cho công bằng, giảm địa tô, giảm tức”.
Hội nghị đi tới một quyết định cực kỳ quan trọng: giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước, cốt làm sao để thức tỉnh được tinh thần dân tộc của mỗi nước trên bán đảo Đông Dương. Hội nghị chủ trương thành lập ở mỗi nước một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Ở Việt Nam mặt trận này được lấy tên là: “Việt Nam Độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt minh). Các tổ chức quần chúng yêu nước chống đế quốc được thành lập trước đây đều thống nhất lấy tên là: Hội Cứu quốc”, như Hội nông dân cứu quốc, Hội Công nhân cứu quốc, Hội Phụ nữ cứu quốc, Hội Thanh niên cứu quốc, Hội Phụ lão cứu quốc, Hội Nhi đồng cứu quốc… và tất cả các Hội Cứu quốc đều tham gia là thành viên của Việt Minh. Đối với Lào, Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận Ai Lao độc lập đồng minh và đối với Campuchia thì lập Mặt trận Cao Miên độc lập đồng minh. Trên cơ sở ra đời mặt trận ở mỗi nước sẽ thành lập mặt trận chung của ba nước là Đông Dương Độc lập đồng minh.
Các dân tộc trên bán đảo Đông Dương đều chịu ách thống trị của đế quốc Pháp, phát xít Nhật cho nên phải đoàn kết thống nhất lực lượng để đánh đuổi kẻ thù chung. Vấn đề dân tộc ở bán đảo Đông Dương lúc này là vấn đề tự do độc lập của mỗi dân tộc. Do đó Hội nghị Trung ương 8 khẳng định hết sức tôn trọng và thi hành đúng quyền dân tộc tự quyết đối với các dân tộc ở Đông Dương. Sau khi đánh đuổi được Pháp, Nhật thì: “Các dân tộc sống trên cõi Đông Dương sẽ tùy theo ý muốn tổ chức thành liên bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng thành dân tộc quốc gia tùy ý”, “Sự tự do độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận và coi trọng”.
Hội nghị quyết định phải xúc tiến công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang và coi đây là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và của nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại. Hội nghị đã xác định 4 điều kiện cho khởi nghĩa vũ trang thắng lợi và xác định 6 nhiệm vụ phải thực hiện để củng cố, tăng cường, phát triển mở rộng lực lượng cách mạng trong cả nước đủ sức để thực hiện và củng cố thắng lợi của cuộc khởi nghĩa vũ trang.
Hội nghị Trung ương 8 đã phát triển sáng tạo phương thức khởi nghĩa vũ trang cách mạng khi đề ra chủ trương tiến hành khởi nghĩa từng phần giành chính quyền từng địa phương mở đường tiến lên tổng khởi nghĩa.
Hội nghị Trung ương 8 đã đề ra nhiệm vụ xây dựng Đảng làm cho Đảng đủ năng lực lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Đảng là người lãnh đạo người tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Đến Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941), Đảng ta đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng được nêu ra từ Hội nghị Trung ương 6 tháng 11/1939. Đó là sự chuyển hướng chiến lược tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và phản phong sang thực hiện chiến lược giải phóng dân tộc, chỉ tập trung lực lượng toàn dân tộc giải quyết cho được một vấn đề cấp bách và quan trọng hàng đầu là đánh đổ ách thống trị của đế quốc Pháp-Nhật, giành độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc.
Từ xác định đúng mâu thuẫn cơ bản chủ yếu, đến chỉ rõ kẻ thù chủ yếu là đế quốc Pháp - Nhật, Hội nghị đã xác định rõ tính chất của cuộc cách mạng là cách mạng giải phóng dân tộc, lực lượng tiến hành cuộc cách mạng này là toàn dân Việt Nam bao gồm mọi tầng lớp, mọi tổ chức chính trị, mọi giai cấp, mọi tôn giáo, dân tộc, mọi lứa tuổi được tập hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất phản đế với tên gọi Mặt trận Việt Nam Độc lập đồng minh. Đảng Cộng sản Đông Dương là thành viên của Việt Minh và là hạt nhân chính trị lãnh đạo Việt Minh. Hội nghị Trung ương 8 đã quyết định phương pháp cách mạng giải phóng dân tộc là khởi nghĩa vũ trang từ khởi nghĩa vũ trang từng phần. Giành chính quyền ở từng địa phương chuẩn bị lực lượng đón thời cơ tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Hội nghị Trung ương 8 là sự khẳng định bước trưởng thành vượt bậc của Đảng ta trong lãnh đạo chính trị, trong đổi mới tư duy về xây dựng đường lối cứu nước, trong việc mài sắc vũ khí tự chỉ trích Bolshevik để vượt qua bệnh ấu trĩ “tả” khuynh, bệnh giáo điều dập khuôn máy móc…
Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941) là ngọn đèn pha soi sáng, là ngọn cờ dẫn đường chỉ lối cho toàn dân ta giành thắng lợi vĩ đại trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chuyên mục Chính trị Chính trị - Xây dựng Đảng Hoạt động của lãnh đạo đảng và nhà nước Thực tiễn - kinh nghiệm Quốc phòng Xây dựng đảng Kinh tế Đấu tranh phản bác luận điệu sai trái, thù địch Văn hóa - Xã hội Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại Nghiên cứu - Trao đổi Thông tin lý luận Bình luận Sinh hoạt tư tưởng Trang địa phương Tiêu điểm Trang doanh nghiệp Các bài chuyên luận đạt giải Búa liềm vàng Năm 2018 Năm 2016 Quán triệt và thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh 50 năm thực hiện theo di chúc chủ tịch Hồ Chí Minh Tổng Công ty Điện lực miền Bắc ĐẤU THẦU MUA SẮM QUÁN TRIỆT VÀ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG HỘI THẢO KHOA HỌC Hoạt động đối ngoại TìmChuyên mục Chính trị Chính trị - Xây dựng Đảng Hoạt động của lãnh đạo đảng và nhà nước Thực tiễn - kinh nghiệm Quốc phòng Xây dựng đảng Kinh tế Đấu tranh phản bác luận điệu sai trái, thù địch Văn hóa - Xã hội Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại Nghiên cứu - Trao đổi Thông tin lý luận Bình luận Sinh hoạt tư tưởng Trang địa phương Tiêu điểm Trang doanh nghiệp Các bài chuyên luận đạt giải Búa liềm vàng Năm 2018 Năm 2016 Quán triệt và thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh 50 năm thực hiện theo di chúc chủ tịch Hồ Chí Minh Tổng Công ty Điện lực miền Bắc ĐẤU THẦU MUA SẮM QUÁN TRIỆT VÀ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG HỘI THẢO KHOA HỌC Hoạt động đối ngoại Tìm
Tạp chí Cộng sản: Những chặng đường phát triển
Chương I: Tạp chí Đảng từ 1930 đến 1945
Dưới đây là những nét chính về các tạp chí đó.
TẠP CHÍ ĐỎ
Trong Lời nói đầu của Tạp chí Đỏ số 1 ghi rõ:
“1. Tạp chí này sau sẽ tiếp tục in mãi, hoặc nhiều hoặc ít, hoặc một tuần, hoặc 10 ngày, nửa tháng, không nhất định.
2. Tài liệu trong tạp chí: hoặc là cách làm việc, hoặc là kinh nghiệm cách mạng các nước, hoặc là tin tức thế giới, hoặc là phê bình công việc của mình, v.v.. sẵn gì in nấy.
3. Trách nhiệm các cơ quan đối với tạp chí:
a) Đem làm tài liệu huấn luyện và nghiên cứu cho đảng viên.
b) Lấy tài liệu trong này mà làm báo.
c) Bài nào nên truyền bá cho đa số quần chúng thì kiếm cách in thêm ra.
d) Xem chỗ nào có tâm đắc, chỗ nào khó hiểu, chỗ nào nên sửa đổi, chỗ nào không hợp với hoàn cảnh riêng của địa phương mình, v.v.. thì phải phê bình, phải hỏi.
Nói tóm lại là các đồng chí phải hết sức truyền bá và giúp cho tạp chí được hoàn toàn và phát triển”.
Số 2 cũng gồm 12 trang. Ngoài bìa đề tên là “Xuân hoa thu nguyệt”, nhằm đánh lạc hướng bọn mật thám. Tuy vậy, mở đầu trang 1 vẫn ghi rõ Tạp chí Đỏ số 2. Số này dành toàn bộ 12 trang đăng bài viết về kinh nghiệm bãi công xe điện ở Thượng Hải, đề cập đến các vấn đề: nguyên nhân bãi công; những điều khốn nạn(2) và cách đối phó; những ý kiến sai về cuộc bãi công; những điều thắng lợi về chính trị;... Bài viết cũng đã nêu lên bảy kinh nghiệm trong lúc bãi công.
Bài thứ hai viết về cách rải truyền đơn và phát sách báo. Sau khi nói rõ tính chất quan trọng của việc rải truyền đơn và phát sách báo, bài viết đã nêu những khuyết điểm của cá nhân các đảng viên và những khuyết điểm của các tổ chức đảng trong công việc đó. Tiếp đó trình bày các cách làm và cách tổ chức việc phát hành.
Tạp chí Đỏ số 3 còn có mục tin tức, đưa tin ngắn gọn về Đại hội đại biểu toàn quốc của công nông Philíppin, tin về đại hội công nông các dân tộc da đen ở châu Phi và châu Mỹ, tin về cuộc bãi công của công nhân máy sợi ở Pháp và công nhân máy sợi ở Thượng Hải.
Tạp chí Đỏ số 9 có 6 trang, chỉ gồm một bài viết về công xưởng ủy viên hội. Sau khi giải thích rõ “Công xưởng ủy viên hội là nhóm tất cả các công nhân trong một xưởng (bất kỳ đã hiểu hay là chưa hiểu giai cấp) lại thành một đoàn thể, cùng nhau đứng vào một mặt trận để mưu lợi ích chung cho nhau, ... là lợi dụng cách đấu tranh để huấn luyện cho tất cả công nhân, làm cho người rụt rè cũng tấn tới, làm cho họ đều hiểu ý nghĩa chính trị và giai cấp đấu tranh”; bài báo đã đề cập tiếp các vấn đề: công xưởng ủy viên hội và hành động ủy viên hội; ai lãnh đạo công xưởng ủy viên hội; cách tổ chức và công việc công xưởng ủy viên hội; cách làm cho công xưởng ủy viên hội phát triển; trách nhiệm công xưởng ủy viên hội bây giờ và về sau.
Theo lời ghi trong hồ sơ lưu trữ của Quốc tế cộng sản thì Tạp chí Đỏ được xuất bản ở Trung Quốc.
Căn cứ vào nội dung những số Tạp chí Đỏ còn lưu giữ được, có thể nói rằng, Tạp chí đã giới thiệu một cách sơ giản những vấn đề lý luận (ví dụ vấn đề tư sản dân quyền cách mạng), trình bày những kinh nghiệm hoạt động cách mạng (như kinh nghiệm cuộc bãi công ở Thượng Hải), hoặc hướng dẫn một cách có hệ thống các mặt công tác (ví dụ việc giữ bí mật, công tác rải truyền đơn và phát hành báo…). Trong năm đầu Đảng vừa mới thành lập, phần đông cán bộ, đảng viên còn bỡ ngỡ trong hoạt động, lại chưa hiểu biết gì mấy về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Tạp chí Đỏ đã có tác dụng tích cực trong việc hướng dẫn nhận thức, hướng dẫn công tác cho cán bộ, đảng viên. Tuy về nội dung và hình thức còn đơn giản, do phải thích ứng với điều kiện Đảng mới thành lập và còn hoạt động bí mật, Tạp chí Đỏ đã mang tính chất một tạp chí lý luận của Đảng, ở chỗ nó không làm nhiệm vụ thông tin như các tờ báo mà chủ yếu nó hướng dẫn nhận thức, nâng cao trình độ hiểu biết trong hoạt động cách mạng.
TẠP CHÍ CỘNG SẢN (1931)
Tháng 10-1930, Hội nghị lần thứ nhất của Trung ương Đảng đã thông qua Luận cương chính trị của Đảng và cử ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng, do đồng chí Trần Phú làm Tổng Bí thư. Hội nghị cũng đã quyết định đổi tên Đảng là Đảng Cộng sản Đông Dương. Sau Hội nghị ít lâu, Trung ương Đảng xuất bản Tạp chí Cộng sản thay cho Tạp chí Đỏ.
Tạp chí Cộng sản có tiêu đề “Cơ quan của Đảng Cộng sản Đông Dương”. Hiện nay ở Cục Lưu trữ (thuộc Văn phòng Trung ương Đảng) còn giữ được số 1.
Bây giờ chánh là lúc Đảng đương dự bị khai giảng đại hội, những công việc đã kể ra trên lại cần phải làm một cách rất náo nhiệt. Bởi vậy hết thảy đảng viên đều phải hăng hái tham gia vào công tác của Tạp chí Cộng sản, phải thường phát biểu ý kiến, góp kinh nghiệm và thảo luận các vấn đề quan trọng, tự chỉ trích, …
...Một điều mà các đảng viên nên để ý là Tạp chí Cộng sản cốt để riêng cho đảng viên chớ không phải là một cái cơ quan tuyên truyền cho quần chúng”.
Tiếp “Lời nói đầu”, Tạp chí Cộng sản đăng bài “Vấn đề tổ chức công hội”. Sau khi định rõ công hội là gì và nêu rõ vị trí của công hội trong cách mạng, bài báo đã giới thiệu Nghị quyết của Đại hội Quốc tế công hội đỏ (họp tháng 7-1930) về vấn đề công hội ở Đông Dương ... Bài báo cũng đã nêu rõ: để thực hiện nghị quyết đó thì phải chống các xu hướng sai lầm, như xu hướng kinh tế cho rằng chỉ tranh đấu kinh tế mà thôi; xu hướng phân biệt tranh đấu kinh tế với tranh đấu chính trị; xu hướng công hội biệt phái chỉ tổ chức những công nhân hăng hái giác ngộ. Bài báo đề ra nhiệm vụ phải phát triển công hội mau và rộng thì “vô sản giai cấp mới có thể lãnh đạo cho dân cày và hết thảy quần chúng lao khổ tranh đấu để cướp chính quyền về công nông”.
Tiếp theo, Tạp chí đăng Nghị quyết của Đại hội Quốc tế công hội đỏ lần thứ năm về nhiệm vụ vận động công nhân ở Đông Dương”.
Trong bài “Lời bàn về tổ chức”, sau khi phê phán những nhận thức sai lầm về công tác tổ chức như phân ra các tổ chức trên dưới từng bậc, xếp loại một cách máy móc như Đảng thì xếp số 1, Hội phản đế số 2, Công hội số 3, Nông hội số 4, Hội cứu tế số 5, ... hoặc cho rằng, mỗi người chỉ được vào một tổ chức, không thể từ lớp trên tụt xuống lớp dưới,..., bài báo đã nêu rõ công hội, nông hội, hội phản đế, cứu tế đỏ đều là các tổ chức quần chúng để đấu tranh cách mạng, “cái nào cũng có ích, có giá trị, cái nào cũng có trường hoạt động của nó, cái này giúp cái kia, cái kia giúp cái nọ”. Một người có thể có chân trong nhiều tổ chức. Các tổ chức có mối liên hệ với nhau. Các hội quần chúng quây quần lấy Đảng, noi theo con đường mà Đảng đã vạch ra. Sự khác nhau giữa Đảng và tổ chức quần chúng là ở vị trí, nhiệm vụ, tính chất mỗi cái trong cách mạng. “Đảng cộng sản khác các hội cũng như cái trục xe đối với vành xe, nghĩa là như trung tâm đối với chung quanh. Đảng lại khác các hội như bộ tham mưu đối với toàn thể đội quân, vì vậy mà về đường tổ chức, Đảng không thể rộng hơn các hội, các hội phải có tính chất quần chúng, nghĩa là rộng hơn Đảng ...”.
Trong số 1 còn có bài “Cần phải mở rộng việc tự chỉ trích trong Đảng”. Từ những kinh nghiệm lịch sử của phong trào cách mạng thế giới và của các đảng anh em, bài báo chỉ rõ phải biết tự chỉ trích thì Đảng mới trở nên mạnh được. Sau khi nêu rõ những điều kiện cần thiết để làm tốt việc tự chỉ trích, bài báo viết: “Nếu không mở sự tự chỉ trích trong Đảng thì biết lấy gì mà rõ những điều lầm lỗi từ xưa đến nay; nếu không có tự chỉ trích thì biết kiếm phương kế gì mà chữa những điều lỗi lầm ấy. Đảng của chúng ta là đảng của vô sản giai cấp cách mạng, cho nên chúng ta không sợ mà không nói những sự sai lầm của chúng ta... Muốn cho những điều sai lầm lỗi lạc về trước thành ra những bài học chung cho hết thảy đảng viên để mau sửa đổi thì những điều tự chỉ trích phải đăng vào tạp chí này. Bởi vậy các đồng chí phải đặc biệt chú ý về vấn đề ấy và viết vào Tạp chí Cộng sản”.
Qua số 1, có thể thấy rằng so với Tạp chí Đỏ, Tạp chí Cộng sản có nội dung phong phú hơn, đa dạng hơn. Ngoài việc đăng một số văn kiện và bài dịch, như trên đã trình bày, Tạp chí Cộng sản đã có những bài viết có phân tích lý luận ở mức cao hơn. Việc dùng lý luận và dùng những cơ sở thực tế để đấu tranh chống những nhận thức, những khuynh hướng tư tưởng sai trái cũng rõ nét hơn. Tạp chí Cộng sản đã đề cập những vấn đề quan trọng trong hoạt động của Đảng, như vấn đề tổ chức, việc tự phê bình trong Đảng, công tác vận động công nhân. Ngoài ra, bài dịch báo cáo của đồng chí Xta-lin đã cung cấp cho cán bộ, đảng viên những hiểu biết cần thiết về tình hình thế giới. Như vậy, dù chỉ trong một số, Tạp chí Cộng sản đã thể hiện một bước chuyển biến mới trong quá trình phát triển tạp chí Đảng, đã thể hiện rõ nét là cơ quan lý luận và chính trị của Đảng. Điều đó bắt nguồn từ sự trưởng thành bước đầu của Đảng ta và của phong trào cách mạng rộng lớn trong cả nước sau khi Đảng được thành lập.
TẠP CHÍ BÔNSƠVÍC
Năm 1934, Ban lãnh đạo hải ngoại của Đảng (hồi đó gọi là Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng) được thành lập, với nhiệm vụ thống nhất các tổ chức đảng đã được gây dựng lại ở trong nước, phục hồi những tổ chức bị địch phá vỡ và xây dựng cơ sở mới, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, chuẩn bị Đại hội Đảng. Tháng 6-1934, Ban Chỉ huy ở ngoài nước của Đảng đã họp cùng với đại biểu các đảng bộ trong nước để thống nhất hoạt động của Đảng trong phạm vi cả nước.
Ban Chỉ huy ở ngoài nước của Đảng cũng quyết định xuất bản Tạp chí Bônsơvíc, với tiêu đề “Cơ quan lý thuyết của Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương (phân bộ của Quốc tế cộng sản)”. Đồng chí Hà Huy Tập được phân công chỉ đạo công tác tuyên truyền cổ động kiêm Tổng Biên tập Tạp chí Bônsơvíc. Sau Đại hội I của Đảng (tháng 3-1935), tiêu đề ấy được đổi thành “Cơ quan lý thuyết của Đảng Cộng sản Đông Dương”. Theo một số công trình nghiên cứu về báo chí cách mạng đã công bố, từ số đầu cho đến số 10, Tạp chí Bônsơvíc ra đều đặn hằng tháng, chưa rõ tại sao một năm sau, từ tháng 2-1935 đến tháng 2-1936 mới ra số 11. Từ số 11 đến số 15 lại ra đều hằng tháng (số 12 ra tháng 3-1936, số 13 ra tháng 4-1936, số 14 ra tháng 5-1936 và số 15 ra tháng 6-1936). Số 16 đến tháng 9-1936 mới ra.
Dưới đây, chúng tôi giới thiệu Tạp chí Bônsơvíc theo những tài liệu hiện có.
Số 10 ra tháng 2-1935, có 47 trang. Mở đầu là bài “Công tác trong sáu tháng vừa qua”. Sau khi nhắc lại quá trình phục vụ Đảng từ sau ngày Trung ương bị vỡ do sự đánh phá của địch, bài báo đã điểm lại tình hình tổ chức của Đảng, tình hình các báo chí của Đảng, tình hình vận động thanh niên, công nhân, nông dân, phụ nữ, binh lính, hoạt động của Hội phản đế đồng minh, của Hội cứu tế đỏ, phong trào đấu tranh của quần chúng. Bài báo khẳng định công tác của Đảng có nhiều thắng lợi do sức tranh đấu của toàn Đảng, do đường lối đúng đắn của Đảng và do sự tín nhiệm của quần chúng. Tuy thắng lợi nhiều nhưng khuyết điểm không phải ít. Bài báo kết luận: nhiệm vụ của tất cả các đồng chí là phải hăng hái tham gia việc chuẩn bị cho Đại hội, phải sửa chữa những sai lầm, khắc phục những khuyết điểm, làm cho thế lực của Đảng càng tăng, phong trào quần chúng càng mạnh.
Tiếp đó là bài “Trước lúc Đại hội Đảng, phải nghiên cứu bản Chương trình hành động của Đảng một cách thế nào ?”. Sau khi khẳng định bản Chương trình hành động của Đảng là một tài liệu rất quan trọng, là kim chỉ nam hành động của toàn Đảng và của phong trào cách mạng cả nước, tuy ra đời hồi tháng 6-1932 nhưng vẫn có đầy đủ giá trị là văn kiện dự thảo cho Đại hội Đảng, bài báo đã phê phán những thái độ không đúng đối với chương trình đó, nêu rõ trách nhiệm của các đảng bộ đối với việc thảo luận chương trình đó, đồng thời hướng dẫn cách thức thảo luận để chuẩn bị cho Đại hội Đảng.
Bài “Công tác của các đảng bộ ở miền Nam từ 1933 đến 1934” đề cập đến các vấn đề: quá trình cải tạo các đảng bộ; gây dựng lại hệ thống của Đảng; kinh nghiệm tổ chức đảng viên và quần chúng; quần chúng tranh đấu; tuyên truyền... Bằng những số liệu, những tư liệu cụ thể, bài báo chỉ rõ từ 1931 đến 1934, không có giờ phút nào mà Đảng Cộng sản chết như quân thù ngày thường rêu rao, còn phong trào đấu tranh của quần chúng thì ngày càng được phục hồi. Khi đề cập đến công tác tuyên truyền, bài báo đã cung cấp nhiều tư liệu quý về hoạt động của các sách báo, các tạp chí cách mạng ở miền Nam. Trong từng mặt hoạt động của Đảng, bên cạnh những ưu điểm, bài báo cũng nêu lên những khuyết điểm, tồn tại. Bài báo này, cùng với bài “Công tác trong sáu tháng vừa qua” đăng ở trang 1 của tạp chí là những tư liệu quý về mặt lịch sử Đảng.
Bài “Một vài xu hướng sai lầm về mặt phản đế đồng minh và phụ nữ vận động” đã phê phán xu hướng coi nhẹ việc tổ chức các hội phản đế và coi nhẹ công tác vận động phụ nữ.
Bài “Năm năm Yên Bái bạo động” đã trình bày quá trình của cuộc bạo động; các giai cấp đối với cuộc bạo động,… Bài báo nêu rõ: “Bạo động Yên Bái tuy bị thất bại nhưng cũng làm cho đế quốc Pháp và bọn chân tay của chúng phải lo cho nền thống trị bóc lột. Bạo động Yên Bái cũng là một chương lịch sử quan trọng trong lịch sử cách mạng giải phóng ở xứ Đông Dương, và cũng là một kinh nghiệm rất hay cho công nông Đông Dương sau này vậy”. Bài báo cũng đã nói rõ những sai lầm của Việt Nam quốc dân đảng khiến cho cuộc bạo động bị thất bại.
Bài “ủng hộ cách mạng Xiêm” điểm lại những thắng lợi của cách mạng Xiêm trong 3-4 năm, sự đàn áp của các thế lực cầm quyền Xiêm từ sau cuộc chính biến của bọn quân phiệt năm 1932, đặc biệt là việc bắt bớ hơn 150 người vừa xảy ra. Bài báo đã nêu lên những việc làm của Đảng Cộng sản Đông Dương nhằm ủng hộ cách mạng Xiêm, chống khủng bố trắng ở Xiêm.
Bài “Cách mệnh tranh đấu của dân tộc Thổ” cho biết phong trào đấu tranh của dân tộc Thổ ở thượng du Bắc Kỳ đã lên cao và có nhiều kinh nghiệm tốt. Để đối phó lại, bọn đế quốc đã tìm cách khủng bố bắt bớ khoảng 200 người. Bài báo kêu gọi các địa phương phối hợp đấu tranh ủng hộ phong trào cách mạng của các dân tộc thiểu số, đòi trả ngay 200 người bị bắt, tổ chức lạc quyên giúp đỡ những người bị bắt.
Bài “Công hội vận động (1934)” điểm lại tình hình các công hội đỏ, vai trò của công hội trong các cuộc đấu tranh quần chúng vừa qua, và những sai lầm chính trong công tác vận động công nhân. Trên cơ sở tình hình đó, bài báo đã nêu lên bảy nhiệm vụ cần thiết để chuyển hướng sự lãnh đạo của Đảng đối với công hội.
Bài “Vấn đề công hội ở C.B.”, sau khi phân tích những nguyên nhân sai lầm khiến cho Đảng bộ tỉnh C.B. không lãnh đạo tốt những nông hội do mình tổ chức ra, đã đề ra những phương châm cần thiết mà Đảng bộ C.B. cần thực hiện để kịp thời bổ cứu tình hình.
Số 11, theo tài liệu của mật thám Pháp, có các bài chính viết về Đại hội VII của Quốc tế cộng sản và về Mặt trận nhân dân chống đế quốc ở Đông Dương.
Số 12, hiện chỉ còn bản nội dung tóm tắt do mật thám ghi bằng tiếng Pháp, có 15 bài, ngoài ra có phần đính chính các sai sót ở các số trước. Trong số 15 bài, có các bài sau đây đáng chú ý:
- Chống chính sách biệt phái. Bài này phê phán đầu óc hẹp hòi, kêu gọi cán bộ, đảng viên thực hiện đúng Nghị quyết của Đại hội Đảng tháng 3-1935 bằng cách đi sâu vào quần chúng, tổ chức và hướng dẫn quần chúng đấu tranh. Không có quần chúng thì những khẩu hiệu của Đảng sẽ chỉ là những ngôn từ trống rỗng, không thể được thực hiện. Từ thực tế của tình hình Đảng và các tổ chức quần chúng, bài báo đã phân tích sở dĩ Đảng không phát triển được, nguyên nhân chính là do cán bộ, đảng viên không hướng về quần chúng.
Bài này đã được mật thám Pháp dịch toàn văn ra tiếng Pháp.
- Tham luận của đồng chí Hải An(4) tại Đại hội VII của Quốc tế cộng sản.
- 8-3 - Ngày phụ nữ quốc tế.
- Kỷ niệm Công xã Pa-ri.
- Những thay đổi ở Liên Xô.
- Giành chính quyền, …
Số 15 ra tháng 6-1936, có 47 trang. Mở đầu là bài “Mặt trận dân chúng thống nhất tranh đấu phản đế” đề cập đến các vấn đề: vì sao phải lập mặt trận thống nhất; kinh nghiệm mặt trận thống nhất tranh đấu; những xu hướng sai lầm trong hàng ngũ Đảng ta về mặt trận phản đế. Cuối cùng bài báo nêu rõ những việc cần làm.
Bài “Chính sách hòa bình của Đảng Bônsơvíc” thuật lại câu chuyện giữa đồng chí Xta-lin và Hô-uốt. Qua câu chuyện, đồng chí Xta-lin đã phân tích rõ sự nguy hiểm của chiến tranh, những nguyên nhân dẫn đến chiến tranh, đồng thời giải thích rõ chủ nghĩa xã hội, trình bày rõ Hiến pháp mới của Chính phủ Xô-viết.
Bài “Những sự thay đổi trong công tác của Đảng Cộng sản Tàu” trích dịch từ bài của Vương Minh, đại biểu của Đảng Cộng sản Trung Hoa tại Quốc tế cộng sản, nêu rõ các chính sách của Đảng Cộng sản Trung Hoa trong các vùng Xô - viết.
Bài “Chính sách không triệt để của Việt Nam quốc dân đảng” thuật lại một cuộc trao đổi ý kiến giữa một người cộng sản và một cán bộ chỉ huy của Việt Nam quốc dân đảng về vấn đề Mặt trận thống nhất phản đế ở Đông Dương và ở ngoài nước. Qua cuộc trao đổi ý kiến đó thấy rõ những sai lầm trong chính sách của Việt Nam quốc dân đảng.
Ngoài ra, Tạp chí Bônsơvíc số 15 còn có bài đề cập đến nỗi khổ của người nông dân Đông Dương và một số bài nhằm đấu tranh chống bọn quốc gia cải lương. Cuối số có mục tin tức vắn tắt về cách mạng thế giới.
Số 16 được mở đầu bằng bài “Đối với Đông Dương quốc dân hội nghị”. Sau khi nêu rõ trong toàn Đông Dương đã bắt đầu có phong trào Mặt trận nhân dân phản đế, bài báo đã đề cập những nhiệm vụ cần làm của người cộng sản để cổ vũ và lãnh đạo phong trào đó.
Bài “Mặt trận nhân dân phản đế ở Tàu” trình bày hoàn cảnh, nguyên nhân ra đời và những thắng lợi bước đầu của Mặt trận nhân dân kháng Nhật ở Trung Quốc.
Tạp chí Bônsơvíc số 16 còn có bài viết về thắng lợi của Liên Xô nhân Kỷ niệm lần thứ 19 Cách mạng Tháng Mười Nga, và bài viết về cuộc nội chiến ở Tây Ban Nha.
Hiện nay, chúng ta chưa tìm lại được đầy đủ các số của Tạp chí Bônsơvíc. Tuy vậy, với những tư liệu hiện có về Tạp chí, chúng ta thấy Tạp chí Bônsơvíc đã có những bài phản ánh phong trào cách mạng ở các miền trong nước, biểu dương những thành tích công tác của các đảng bộ, đồng thời uốn nắn, phê phán những quan điểm tư tưởng sai lầm của cán bộ, đảng viên. Tạp chí đã góp phần đắc lực vào việc chuẩn bị Đại hội lần thứ nhất của Đảng. Sau Đại hội này, Tạp chí tuyên truyền tập trung cho các nghị quyết của Đại hội. Tạp chí cũng tuyên truyền cho Nghị quyết Đại hội VII của Quốc tế cộng sản, góp phần tích cực phát động phong trào Mặt trận dân chủ ở Đông Dương.
Tạp chí Bônsơvíc đã giới thiệu với bạn đọc Việt Nam những luận điểm của V.I. Lê-nin về các vấn đề đảng, nông dân, tôn giáo,… Tạp chí đã dịch đăng một số bài của các tạp chí của Quốc tế cộng sản và của các đảng anh em. Cuộc đấu tranh tư tưởng và lý luận chống các khuynh hướng sai lầm và phản động được Tạp chí đặc biệt coi trọng. Trên Tạp chí Bônsơvíc, đã có những bài phê phán chủ nghĩa tờ-rốt-kít, chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi,... Nhân những ngày kỷ niệm cách mạng trên thế giới, Tạp chí có bài giới thiệu những kinh nghiệm đấu tranh cách mạng và những thành tựu của các đảng anh em.
Tuy chỉ tồn tại được hơn hai năm, nhưng Tạp chí Bônsơvíc đã đóng góp vai trò quan trọng trong việc khôi phục cơ sở và hệ thống tổ chức đảng, chuẩn bị cho Đại hội Đảng lần thứ nhất và góp phần quan trọng vào việc thống nhất Đảng về lý luận, tư tưởng, chính trị và tổ chức để chuẩn bị đón cao trào cách mạng mới.
TẠP CHÍ CỘNG SẢN (1941)
Trong những năm cao trào của Mặt trận dân chủ Đông Dương (1936-1939), Trung ương Đảng đã quyết định xuất bản tạp chí lý luận. Nghị quyết Hội nghị toàn thể của Trung ương Đảng (ngày 29 và 30- 3-1938) ghi rõ : “Ban Trung ương cần ra một tạp chí bí mật để giải thích những vấn đề mà các sách báo công khai không thể bàn đến được”. Tuy vậy, do hoàn cảnh khó khăn lúc bấy giờ, Đảng không thể xuất bản được tạp chí như đã ghi trong Nghị quyết.
Cuối năm 1940, đầu năm 1941, tình hình quốc tế và trong nước có những diễn biến mới. Tháng 6-1940, nước Pháp bị phát-xít Đức chiếm đóng. Phát-xít Nhật nhân cơ hội đó xâm lược Đông Dương. Thực dân Pháp đầu hàng quân Nhật. Nhân dân Việt Nam bất khuất đã nổi dậy chống cả Nhật lẫn Pháp. Tháng 9-1940, nổ ra cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn. Tháng 11-1940, khởi nghĩa Nam Kỳ. Tháng 1-1941, binh biến ở Đô Lương. Cách mạng Đông Dương đang tiến bước đến những thời cơ mới.
Tháng 5-1941, Hội nghị Trung ương Đảng do đồng chí Nguyễn Ái Quốc, đại biểu của Quốc tế cộng sản, triệu tập và chủ trì họp tại Pắc Bó (Hà Quảng, Cao Bằng). Hội nghị quyết định thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) và vạch rõ nhiệm vụ trung tâm của Đảng và dân ta lúc đó là chuẩn bị khởi nghĩa. Hội nghị cử ra Ban Chấp hành Trung ương chính thức và bầu đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư của Đảng.
Cuối tháng 9-1941, Tạp chí Cộng sản, cơ quan lý luận và chính trị của Trung ương Đảng do đồng chí Trường Chinh trực tiếp phụ trách, ra số 1(5).
Một là, gần chín năm sau đó, trong Tạp chí Cộng sản (số 1, năm thứ nhất), ra tháng 7-1950 có viết ở lời mở đầu: “Năm 1941, Trung ương Đảng đã ra một tờ tạp chí cũng lấy tên là Tạp chí Cộng sản”.
Hai là, một tài liệu của mật thám Pháp đã dịch ra tiếng Pháp mục lục số 1 của Tạp chí Cộng sản (1941). Nếu dịch lại theo tiếng Việt thì bản mục lục đó gồm các phần:
1- Cùng bạn đọc
2- Hội nghị lần thứ tám của Ban Chấp hành Trung ương.
3- Để thực hiện tổ chức chính trị mới.
4- Phần phụ lục: Những tài liệu của Đảng.
5- Giải thích những từ ngữ khó.
Tài liệu đó của mật thám Pháp cũng tóm tắt từng bài của mục lục nói trên. Bài “Cùng bạn đọc” đã mở đầu bằng câu “Tạp chí Cộng sản là cơ quan lý luận của Đảng ... Tạp chí sẽ phấn đấu trở thành cơ quan giáo dục của Đảng, giúp cán bộ đảng viên hiểu rõ chính sách, sinh hoạt, sự nghiệp và tổ chức của Đảng”.
Bài “Hội nghị lần thứ 8 của Trung ương Đảng” cho biết, hội nghị diễn ra trong hoàn cảnh đặc biệt của Đông Dương (các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ và Đô Lương bị thất bại; đế quốc Pháp tổ chức một đợt tiến công các lực lượng cộng sản). Hội nghị có mục đích định ra đường lối và sách lược của Đảng, tập trung các lực lượng chống đế quốc chung quanh giai cấp vô sản.
Bài báo cho biết hội nghị đã xem xét tình hình một cách khách quan, Đảng quyết định từ bỏ các quan niệm hẹp hòi, khắc phục các sai lầm, khuyết điểm, đề ra phương hướng sửa chữa để Đảng không những là người lãnh đạo cách mạng Đông Dương, mà còn là người đại diện cho toàn thể các dân tộc ở Đông Dương. Đảng viên phải làm tròn nhiệm vụ, không sợ khủng bố, không sợ chết chóc, vì tương lai thuộc về họ.
Đảng phải bỏ những khẩu hiệu đã lỗi thời, nêu cao những khẩu hiệu mới: đánh đổ đế quốc Pháp, Nhật, đánh đổ Việt gian. Quốc hữu hóa tài sản của bọn đế quốc và bọn Việt gian. Thành lập chính quyền nhân dân cách mạng. Ngày làm 8 giờ, có bảo hiểm xã hội. Thủ tiêu mọi thứ thuế hiện hành, thực hiện đánh thuế theo thu nhập. Chia đất của bọn đế quốc và Việt gian cho dân cày và binh lính. Nam nữ bình quyền.
Tổ chức một mặt trận chống Pháp và chống Nhật, phát động cao trào cứu nước, xây dựng lực lượng vũ trang. Tóm lại chính sách mới của Đảng là chính sách “tất cả cho việc giải phóng đất nước”.
Tư liệu về số 1, Tạp chí Cộng sản (1941) chỉ còn có thế. Sau số 1, Tạp chí có ra các số tiếp theo hay không, điều đó chưa có tư liệu để khẳng định.
TẠP CHÍ CỘNG SẢN (1943)
Từ đầu năm 1943, sau thắng lợi to lớn của Liên Xô và ở mặt trận Xta-lin-grát và các mặt trận tiếp theo đã đưa cuộc chiến tranh thế giới thứ hai tới bước ngoặt căn bản, báo hiệu sự thất bại không tránh khỏi của bè lũ phát-xít Đức - ý - Nhật. Nắm vững thời cơ lịch sử, tháng 2-1943, Hội nghị Thường vụ Trung ương Đảng nhận thấy cần có biện pháp thúc đẩy mau hơn nữa cách mạng cả nước đi tới cao trào. Nhận định rằng phong trào cứu nước đã lên khá mạnh ở nông thôn, nhưng còn yếu ở thành thị, nhất là ở các thành phố lớn, Hội nghị chủ trương mở rộng Mặt trận Việt Minh, phát triển mạnh mẽ phong trào ở thành thị. Ban Thường vụ Trung ương quyết định ra Tạp chí Cộng sản, cơ quan lý luận của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, do đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư của Đảng làm chủ nhiệm kiêm chủ bút.
Bài “Vấn đề khởi nghĩa - Kỷ niệm Xô viết Nghệ An” của đồng chí Trường Chinh viết nhân dịp kỷ niệm lần thứ 13 Xô viết Nghệ An đã phân tích ý nghĩa lịch sử sâu xa, những tác dụng tích cực của nó đối với phong trào cách mạng, đồng thời vạch ra những khuyết điểm và sai lầm gây ra thất bại của Xô viết Nghệ An. Từ những bài học kinh nghiệm của Xô viết Nghệ An, tác giả đã phân tích những vấn đề của việc sửa soạn khởi nghĩa chống phát-xít Nhật, Pháp, nêu lên những phương pháp cốt yếu làm cho đông đảo quần chúng tham gia khởi nghĩa, làm cho chiến tranh du kích biến thành địa phương khởi nghĩa, làm cho khởi nghĩa có tính chất quần chúng, đúng ý nghĩa cách mạng giải phóng dân tộc ...”.
Tạp chí Cộng sản số 3 đã biên tập xong, đang chuẩn bị xuất bản thì diễn ra Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Do vậy, việc xuất bản tạp chí phải đình lại.
Trong những năm 1945-1946, do công cuộc gìn giữ chính quyền, chuẩn bị kháng chiến quá khẩn trương, Đảng ta không xuất bản tạp chí lý luận. Từ tháng 8-1947 đến tháng 8-1950, Đảng ta lần lượt xuất bản tạp chí Sinh hoạt nội bộ và Tạp chí Cộng sản.
TẠP CHÍ SINH HOẠT NỘI BỘ
Giữa năm 1947, cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp đã giành được những thắng lợi bước đầu. Chiến tranh du kích phát triển. Lực lượng vũ trang với ba thứ quân hình thành và ngày càng lớn mạnh. Cả nước nhanh chóng thích ứng với hoàn cảnh vừa sản xuất, vừa chiến đấu. Đội ngũ đảng viên được mở rộng, từ 5.000 người sau ngày Tổng khởi nghĩa đã lên tới 20.000 người vào cuối năm 1946; 50.000 người vào cuối năm 1947; 180.000 người vào cuối năm 1948. Đội ngũ cán bộ ngoài đảng, cán bộ các đoàn thể cũng tăng nhanh. Đảng ngày càng phát huy được vai trò lãnh đạo của mình về các mặt. Trước tình hình đó, cùng với việc tiến hành nhiều biện pháp đẩy mạnh công tác giáo dục, bồi dưỡng cán bộ, Trung ương Đảng quyết định xuất bản tạp chí Sinh hoạt nội bộ nhằm đáp ứng yêu cầu của việc xây dựng Đảng và tăng cường công tác lãnh đạo của Đảng.
Tạp chí Sinh hoạt nội bộ ra đời tháng 8-1947, với tư cách là “cơ quan trung ương huấn luyện công tác và lý luận”. Nhưng vì hồi bấy giờ Đảng không ra công khai, cho nên trên bìa số 1 ghi là “của Cứu quốc hội”, từ số 2 đến số 13 ghi là “của Đoàn thể”, và từ số 14 (ra tháng 2-1949) ghi là “của Đảng”. Tuy ngoài bìa ghi “chỉ lưu hành trong Đảng”, nhưng trên thực tế rất nhiều cán bộ ngoài Đảng, đặc biệt là trong giới trí thức cũng tìm đọc tạp chí. Nhiều đảng viên, khi tuyên truyền, đã đưa cho họ đọc Sinh hoạt nội bộ. Tạp chí in typô trên giấy khổ 15x22 cm, số trang nhiều ít tùy theo từng số, có số chỉ có 28 trang, có số 46 trang, có số 56 trang, và đặc biệt số 20, ra tháng 2 và 3-1950, dày 102 trang. Giá mỗi số tạp chí được ghi ở cuối trang bìa 4 (trừ số 1 ghi ở đầu trang bìa 1). Giá đó tăng giảm tùy theo giá giấy và số lượng trang in mỗi số. Số có giá thấp nhất là 3,5 đồng, có 9 số giá từ 10-20 đồng, số 20 đặc biệt giá 50 đồng.
Tạp chí Sinh hoạt nội bộ do đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư Đảng, trực tiếp phụ trách. Đồng chí Trường Chinh định ra kế hoạch từng số và phân công người viết bài. Tự đồng chí cũng viết rất nhiều bài cho tạp chí, có số viết 3-4 bài. Ngoài bút danh Trường Chinh, đồng chí còn dùng bút danh Tân Trào. Nhiều đồng chí lãnh đạo khác của Đảng cũng viết bài cho tạp chí: đồng chí Hoàng Quốc Việt với bút danh Tầm Nguyên, Việt Dân, đồng chí Võ Nguyên Giáp với bút danh Hồng Nam, đồng chí Lê Đức Thọ với bút danh Trung Thành, đồng chí Phạm Văn Đồng với bút danh P. Tô, đồng chí Trần Đăng Ninh với bút danh Tuấn Nguyên, đồng chí Lê Văn Lương với bút danh Lê Thu, đồng chí Nguyễn Chí Thanh với bút danh Chí Thanh, …
Giúp đồng chí Trường Chinh trong việc tổ chức bài từ số 1 đến số 12 có đồng chí Nguyễn Chương. Cuối năm 1948, đồng chí Nguyễn Chương được cử đi nước ngoài. Đồng chí Trần Quang Huy lúc đó là Chánh Văn phòng Tổng Bí thư kiêm Phó Chủ nhiệm Bộ Tuyên huấn Trung ương Đảng (6) được giao trách nhiệm giúp đồng chí Trường Chinh trong việc biên tập nội dung tạp chí Sinh hoạt nội bộ từ số 13, cụ thể là: chuẩn bị kế hoạch bài cho từng số, viết bài và sửa bài, trình đồng chí Trường Chinh duyệt bài xã luận và một số bài đặc biệt quan trọng. Bộ Biên tập tạp chí đặt ngay tại Văn phòng Tổng Bí thư và được phép sử dụng một số cán bộ có năng lực của văn phòng tham gia công tác biên tập. Tạp chí in chung với các báo khác của Đảng tại nhà in Hồng Phong ở bản Khuôn Câm, cách chợ Chu chừng dăm cây số, cách Văn phòng Tổng Bí thư khoảng 15km đường ruộng, đi bộ mất khoảng nửa ngày đường. Bài của từng số làm xong thì cho liên lạc đưa đến nhà in. Toàn bộ việc in ấn, chữa morát, việc phát hành, việc định giá từng số đều do nhà in phụ trách. Có thể nói nhà in kiêm luôn việc trị sự của tạp chí.
Ở Lời nói đầu đăng trong số 1, có đoạn viết: “Ra đời giữa lúc cuộc kháng chiến oanh liệt của toàn thể dân tộc do Hội ta lãnh đạo đang bước vào thời kỳ quyết liệt, hơn nữa ra đời giữa lúc Hội lại mỗi ngày một phát triển mạnh mẽ, mọi mặt công tác thật là phức tạp, tờ Sinh hoạt nội bộ phải gánh vác một trách nhiệm rất nặng nề: Luôn luôn trung thành với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, nó sẽ cố gắng hướng dẫn hết thảy các đồng chí noi theo đường lối chính trị của Hội đã nêu ra trong cuộc trường kỳ kháng chiến, và mạnh dạn gạt ra ngoài tất cả những xu hướng sai lầm. Nó sẽ vạch ra những ưu điểm và khuyết điểm về mọi mặt công tác nội bộ để “củng cố và phát triển Hội”, làm cho Hội trở thành “một Hội có tính chất quần chúng mạnh mẽ”. Có như vậy Hội mới mong làm tròn được nhiệm vụ tiền phong của giai cấp và dân tộc trong lúc đang vượt qua những chặng đường nguy hiểm nhất.
Xem thêm: Thuốc trị rận cho chó tốt nhất, hiệu quả sau 1, thuốc trị ve chó tốt, chính hãng, giá tốt
“Nó sẽ cương quyết đập tan những khuynh hướng sai lầm: cô độc, hẹp hòi, chủ quan, địa phương, bè phái đang ăn sâu, mọc rễ trong hàng ngũ chúng ta. Nó cũng không ngần ngại mổ xẻ và tìm phương thuốc tẩy trừ những ung độc: quan liêu, quân phiệt, hủ hóa, cầu an, v.v.. đang chực tàn phá cơ thể của một số tổ chức của Hội và của “Mặt trận”. Đồng thời nó đề cao những tinh thần hy sinh anh dũng và đức tính gương mẫu của những đồng chí chỉ biết suốt đời hy sinh cho quyền lợi của giai cấp và dân tộc.
“Nó sẽ thâu tóm những kinh nghiệm về quân sự hoặc về các ngành chuyên môn khác tùy theo năng lực của nó, để giúp các đồng chí bồi bổ công tác của mình trong cuộc chiến tranh tự vệ này ...”.
Mục đích và nhiệm vụ nói trên đã được thể hiện rõ nét trong nội dung tạp chí. Mỗi số tạp chí thường dành những trang đầu đăng các bài có nội dung chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Pháp: về đường lối chính sách lớn, về quân sự và địch vận, về xây dựng chính quyền nhân dân và kiên quyết trừ gian, về kinh tế kháng chiến, giảm tô và tạm cấp ruộng đất cho nông dân, v.v.. Trước những diễn biến của cục diện kháng chiến và trước những âm mưu mới của địch, tạp chí đều có bài bình luận kịp thời, chẳng hạn các bài: “Thái độ của Pháp, đối sách của ta” (số 2, tháng 9-1947); “Cuộc tấn công mùa đông của địch và nhiệm vụ quân sự của chúng ta” (số 3, tháng 10-1947); “Pháp rút khỏi một phần lớn Việt Bắc” (số 4 và 5, tháng 11, 12-1947); “Địch nhảy dù Phát Diệm” (số 19, tháng 9 và 10-1949),... Ngoài các bài chuyên luận và bình luận, có lúc tạp chí đăng những đoạn viết n